Nâng cao chất lượng đổi mới sáng tạo

Hiện nay, cùng với cả nước, các tỉnh, thành phố thuộc vùng Đông Nam Bộ vừa thực hiện tái cấu trúc ranh giới hành chính, vừa đẩy mạnh nâng cao năng lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội bền vững. Thực tế cho thấy, các tỉnh, thành trong khu vực đang có sự chuyển động mạnh mẽ trong tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và số hóa các lĩnh vực trọng yếu như quản trị công, sản xuất, kinh doanh, giáo dục, y tế và dịch vụ công, qua đó đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước.

Việc phối hợp đồng bộ giữa cá nhân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương sẽ nâng cao hiệu quả đổi mới sáng tạo.

TS. Nguyễn Hữu Xuyên, Phó Vụ trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ cho biết, quy mô kinh tế số của Việt Nam năm 2024 đạt 36 tỷ USD, gấp 2,8 lần năm 2019. Quy mô kinh tế số so với GDP năm 2024 của Việt Nam khoảng 7,56%. Việt Nam hiện xếp hạng 71 thế giới về chỉ số phát triển Chính phủ điện tử, thuộc nhóm có mức độ phát triển rất cao. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng 51 thế giới về mức độ sẵn sàng cho trí tuệ nhân tạo (AI) của Chính phủ, tăng 19 bậc so với năm 2019. Số lượng các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam năm 2024 tăng 2,5 lần so với năm 2015.

Theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030: tỷ trọng kinh phí từ xã hội trên kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) là hơn 60%; chi ngân sách nhà nước hàng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia từ 3% trở lên; tỷ lệ nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người/vạn dân; có từ 40-50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; có từ 8-10% đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế khai thác thương mại. Năm 2045, Việt Nam làm chủ 20-50% công nghệ chip và vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, robot và tự động hóa, sinh học, hóa học, vật liệu tiêu tiến, công nghệ bảo an ứng dụng trong đảm bảo an ninh quốc gia.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, Nghị quyết 57 đã đưa ra 7 nhóm giải pháp gồm: Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (STID) quốc gia; Khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế, xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển STID; Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho STID quốc gia; Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển STID quốc gia; Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng STI trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh; Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động STID trong doanh nghiệp; Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển STID.

Các đại biểu tham gia Tọa đàm về chính sách thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở các địa phương.

Theo PGS.TS.Phan Thị Bích Nguyệt (Đại học Kinh tế TP.HCM), chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện nâng cao chất lượng đổi mới sáng tạo cũng như tác động của đổi mới sáng tạo với thu nhập dân cư. Việc phối hợp đồng bộ giữa cá nhân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương được kỳ vọng tạo hiệu ứng lan tỏa cộng hưởng giữa các bên, giúp nâng cao thành quả kinh tế của mỗi địa phương cũng như cả nước, hướng đến các mục tiêu, nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW.

PGS.TS.Phan Thị Bích Nguyệt cũng gợi ý những chính sách liên quan đến chiến lược đổi mới sáng tạo gắn liền với phát triển kinh tế, xã hội toàn diện và bền vững ở mỗi địa phương. Đó là, nâng cao vai trò của đổi mới sáng tạo đối với các tiêu chí đánh giá kinh tế – xã hội ở mỗi địa phương. Nâng cao chất lượng thể chế qua cải thiện các chính sách thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế, xã hội; thiết chế pháp lý và an ninh trật tự; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp; giảm chi phí gia nhập thị trường tạo sự cạnh tranh bình đẳng và gai tăng tính năng động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng vốn con người, nghiên cứu và phát triển. Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm: hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng chung và môi trường sinh thái. Đẩy mạnh trình độ phát triển của thị trường, tập trung vào: tài chính và đầu tư; quy mô thị trường. Đẩy mạnh trình độ phát triển của doanh nghiệp dựa trên các tiêu chí của bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương: lao động có kiến thức, liên kết sáng tạo, hấp thu tri thức. Cuối cùng là đẩy mạnh sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ, thể hiện qua việc đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích và đăng ký giống cây trồng, đăng ký nhãn hiệu, nhãn hiệu tập thể, kiểu dáng thiết kế và chỉ dẫn địa lý…

P.Hương